A. Lược sử Giáo xứ Cù Mi


1.Cuộc Nam Tiến của chín tổ phu:
Chiếu Cần Vương do Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi ban hành ngày 13.07.1887 đã dấy lên một phong trào “phò vua cứu nước” lớn mạnh tại Trung và Bắc Kỳ. Song song với tinh thần phò vua, một sự đối kháng với đạo Kitô cũng nổi lên. Sự đối kháng này đạt cao điểm khi hàng loạt các giáo xứ ở miền Trung bị bố ráp, hàng trăm làng đạo bị thiêu đốt và hàng ngàn Kitô hữu bị thảm sát.
Trước tình hình nguy kịch như thế, Cha Phêrô Huỳnh Công Ẩn  thầy Lê Pho cùng chín gia đình giáo dân (có tài liệu nói là 7 gia đình)gốc Quảng Bình, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà đã làm một cuộc “nam tiến”, nhằm bảo vệ tính mạng, giữ vững niềm tin và tìm đất lập nghiệp. Đó là các gia đình sau:
1. Nguyễn Minh
2. Nguyễn Châu
3. Phạm Quân
4. Hà Lực
5. Nguyễn Cậy
6. Nguyễn Đờn
7. Trần Bờ
8. Lê Viễn
9. Lê Tín
       Năm 1887, Cha Phêrô Ẩn và thầy Lê Pho cùng chín gia đình “Tổ Phụ” đã đặt chân đến mảnh đất Cù Mi, lúc đó gọi là làng Hàm Thắng, thuộc tổng Phước Thắng, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. May mắn thay, cha con đã được miêu duệ của quan Kỵ úy Nguyễn Hữu Từ nhường cho một phần đất để làm ăn sinh sống. Rồi trên mảnh đất này, Cha Ẩn đã cùng các bổn đạo đầu tiên lập nên họ đạo Cù Mi. Chỉ một thời gian sau, một nguyện đường bằng gỗ tạp, lợp lá buông được hoàn thành. Đây là ngôi Nhà thờ thứ nhất. Lần đầu tiên sau chuỗi ngày gian nan, thánh lễ “cung hiến” và Mừng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được dâng một cách sốt sắng (15.8.1887) trang nghiêm bởi một cộng đoàn gồm Cha Xứ tiên khởi và các Bổn đạo ít ỏi này.
            Cha Phêrô Ẩn đã dâng Giáo xứ và các con cái mình cho Đức Maria và Cha Phêrô đã chọn Đức Maria Hồn Xác Lên Trời làm Tước hiệu Nhà thờ và Bổn Mạng Giáo xứ.Từ đây, Giáo Hội Việt Nam và Giáo phận Quy Nhơn có thêm một người con vừa chào đời.
2. Cù Mi đứa con xa của Giáo phận Quy Nhơn:
Chỉ 6 năm sau ngày khai xứ, Cha Ẩn đã được Đức Cha Francois Xavier Van Camelbecke Hân, Giám mục Quy Nhơn (1884-1901) gọi về làm Tổng Đại diện giáo phận và Đức Cha đặt Cha Thiên tạm thời coi sóc họ đạo Cù Mi. Một năm sau, Cha Sanh lại được sai đến thay Cha Thiên. Đến năm 1895, Cha Boivin Nhã (Thừa sai Paris) về làm Cha Sở họ đạo.
         Thời gian Cha Nhã coi sóc là thời gian họ đạo phát triển mạnh mẽ. Số giáo dân tăng nhanh nhờ nhiều giáo dân nhập cư và lương dân tại địa phương theo đạo. Cha đã hướng dẫn các bổn đạo làm ngôi nhà thờ mới rộng rãi và vững chắc hơn.Đó là ngôi Nhà thờ thứ 2 của Giáo xứ Cù Mi. Bên cạnh đó, Cha còn mở các lớp Giáo lý để củng cố đức tin cho cả giáo dân cũ và các tân tòng. Sinh hoạt của họ đạo Cù Mi lúc này khá phong phú và vững vàng.
         Đang hăng say hoạt động như vậy, thì năm 1899, Cha Nhã lại được chuyển về Toà Giám mục và nhận trách nhiệm khác. Cũng thời gian này, Cù Mi lại được sát nhập vào địa phận Tây Đàng Trong (sau này đổi thành địa phận Sài Gòn ngày 03.02.1924), kết thúc thời gian 13 năm làm đứa con xa của địa phận Quy Nhơn.
3. Cù Mi cùng Mẹ mới Sài Gòn:
            Năm mươi tám năm thuộc địa phận Sài gòn, với bốn đời Giám mục và mười Linh mục Quản xứ là khoảng thời gian dài và nhiêu khê nhất của họ đạo Cù Mi. Sau khi Cha Nhã đi rồi, năm 1900 Đức Giám mục địa phận Tây Đàng Trong là Lucien Emile Mossard Mão đưa Cha Sao đến làm Quản nhiệm Cù Mi. Cha sao thuộc địa phận Sài Gòn. Cha Sao cử các chức việc gồm các ông: ông Phạm Kề làm Trùm. Đây là ông Trùm tiên khởi của Giáo xứ Cù Mi; ông Trần Bờ, ông Hà Lực, ông Nguyễn Đờn làm Biện. Cha cũng sửa sang lại ngôi Thánh đường cho đàng hoàng hơn. Năm 1902, Cha Sao phải rời Cù Mi và Cha Phuông được sai đến, giúp xứ được 4 tháng. 
           Năm 1903 Cha Phêrô Thao lại đến thay Cha Phuông. Ngoài Cù Mi, Cha Thao còn phải coi sóc họ Xuyên Mộc nữa, giúp xứ Cù Mi được 1 năm, đến năm 1904 Cù Mi lại được Cha J. Guegnard Lộc, đến thay Cha Thao. Cha Lộc là Linh mục thuộc Hội Thừa sai Pari. Thời gian này Cha Lộc đã thiết lập điền thổ nhà chung, lập bộ thuộc công nho của làng Hàm Thắng. Cha Lộc thành lập Hội Đồng Nhi do ông Phêrô Trương Khương làm Hội Trưởng Câu đồng nhi nam và bà Mattha Hà Thị Sở là Hội trưởng Câu đồng Nhi nữ dưới sự dìu dắt của ông Thầy Tám Phước. Tôn chỉ mục đích của Hội là tìm hiểu và học Giáo lý, Thánh hóa bản thân, lập quỹ tiết kiệm. Hội Đồng Nhi dùng quỹ này để giúp đỡ hội viên lúc đau ốm, xin lễ bình yên cũng như lễ an táng cầu hồn cho Hội viên khi đã qua đời. 
          Năm 1906 đến 1907  có  Cha Simon Chánh làm Cha phó và năm 1907 đến năm 1909 có Cha phó Keller Lê thay Cha Simon Chánh làm Cha phó. Từ  năm 1909 Cha Gustave Lefebvre Luật về làm Cha phó thay cha Keller Lê. 
          Đến năm 1912 Cha Lộc đổi đi và Cha Gustave Lefebvre lên làm Cha Chánh xứ và Cha Ferre làm phó. Năm 1915, Cha Phêrô Tiễn về thay, Cha Ferre làm phó. Năm 1916 Cha Gustave Lefebvre đổi về xứ Mỹ Hội, thì Cha Phêrô Tiễn lên Chánh xứ Cù Mi và Cha Tôma Vạn làm Cha Phó. Trong thời gian này Giáo xứ Cù Mi có 2 Dì thuộc dòng MTG Thủ Thiêm giúp. Đó là Dì Nhì Hải và Dì Tám Vân. Tập tục mừng tuổi Chúa, đọc bài chúc Hôn phối tại tiệc cưới, diễn Thánh tuồng mừng lễ Giáng sinh được Cha Phêrô Tiễn áp dụng từ đây. Có những tập tục mới này làm cho tinh thần sống đạo trong giáo dân được hưng khởi rất nhiều. Dù những xáo trộn về Cha Sở như thế, nhưng thời gian đầu, đời sống đạo của giáo dân vẫn ngày một thăng tiến. Những ngày lễ sốt sắng, những sinh hoạt vui tươi và sinh động diễn ra đều đặn. Giáo dân phấn khởi tham gia tổ chức các ngày lễ trọng như Phục Sinh và Giáng Sinh. Có khi giáo dân chuẩn bị tập tuồng, kịch hay canh thức trước cả mấy tháng trời. Nhưng rồi sự khó khăn đã nảy sinh. Nguyên nhân chính là vì các Cha coi sóc đều là người Pháp, thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP). Ngôn ngữ bất đồng, văn hoá cách biệt, Cha sở và bổn đạo ít hiểu nhau. Dần dà, những sinh hoạt sôi nổi cũng chìm xuống. Đến năm 1918, nhiều Chủng sinh Việt Nam được phong chức Linh mục, Toà Giám mục sai Cha Giuse Trần Hiếu Lễ đến làm Chánh họ đạo thay Cha Phêrô Tiễn và Cha Giuse Hưng là Cha Phó. Cha tổ chức lại họ đạo, đặt lại ông Trùm, ông Câu, ông Biện và thành lập các hội đoàn. Mọi sinh hoạt nhận được sinh khí mới và phát triển trở lại. Lúc này, giáo phận Tây Đàng Trong được đổi thành địa phận Sài Gòn (03.02.1924). Cha Lễ coi sóc Cù Mi cho đến năm 1920.                                      Năm 1920, Cha Giuse Lễ đổi đi và Cha Phêrô Thể thuộc Địa phận Sài Gòn về làm Chánh xứ Cù Mi. Cha Thể tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho giáo dân trong Giáo xứ như Cha mở trại dệt đệm bườm được làm bằng lá buông để bán ra miền Trung. Từ ấy, mới có tục danh là Gò đệm. Lúa thu hoạch từ ruộng Nhà chung, Cha Thể không dùng đến mà Cha canh tác phần ruộng riêng là phần ruộng Phó Lâm để chi phí ăn uống hàng ngày. 
            Năm 1922 Cha Thể đổi đi xứ khác. Năm 1923 Giáo dân Cù Mi vui mừng đón Cha cựu Giuse Trần Hiếu Lễ tái giúp xứ Cù Mi. Thời gian này, nhịp sống của giáo dân Cù Mi vui nhộn hơn, giao lưu buôn bán với các nơi chủ yếu bằng đường thủy. Cha Lễ cho nạo vét các cửa sông để ghe thuyền ra vào bến được thuận tiện. Cha còn huy động trong con chiên của mình chuẩn bị làm nhà thờ mới.
          Năm 1928, Cha Lễ được đổi đi nơi khác năm 1928 Cha Micae Nguyễn Văn Giàu thuộc Địa phận Sài Gòn về làm Chánh xứ Cù Mi. Ngoài Cù Mi Cha Giàu còn giúp họ Lagi nữa. Họ đạo vẫn trên đà phát triển. Lúc này số giáo dân đã tăng lên đáng kể. Năm 1930, Cha Giàu đã cùng giáo dân chuẩn bị xây mới ngôi Thánh đường, Cha Giàu cùng với giới trẻ giáo xứ lên Cầu Kiều cậy đá, dùng xe trâu chở về, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm. Cha con ở lại đêm cậy đá làm sao cho đủ số lượng đá cần thiết. Sau đó mỗi gia đình phải góp thêm 4 khối đá nữa và tự chuyên chở về Giáo xứ. Cha còn lập nhiều tiểu ban như: Ban thợ rừng thì lên rừng lo việc khai thác và đẽo cột, kèo, trính, đòn tay,..Gỗ thì toàn là gỗ sao, săng đá. Ngoài ra còn phải mua thêm gổ ở Lagi và chở về bằng ghe. Ban  gạch ngói thì chịu trách nhiệm mướn thợ về xây lò gạch ngói để sản xuất gạch ngói lợp Nhà thờ. Ban lò vôi thì lo ra biển thu lượm vỏ sò về hầm vôi, Cha Giàu còn mua đá san hô ở miền Trung về hầm vôi thêm mới đủ số lượng yêu cầu. Ngoài ra, Cha còn phân công chở cát xây…..Ximăng. Còn sắt, đinh, vít, bùlon thì mua ở Sài Gòn dùng ghe chở về bằng đường biển (số lượng ít). Sau khi chuẩn bị xong năm 1932 khởi công xây dựng. Năm 1934, Nhà thờ khá kiên cố với diện tích 30 x 12 mét và một tháp chuông cao 30 mét theo mô hình nhà thờ kiểu Âu châu  hoàn thành. Đây là Nhà thờ thứ 3 của Giáo xứ Cù Mi. Sau khi công trình xây dựng Nhà thờ và các công trình khác hoàn thành, Cha Micae Giàu có nhã ý mời Đức Cha Quinton Giáo  phận Sài Gòn về làm phép Nhà thờ mới và một số công trình phụ như: nhà xứ, nhà Dì, trường học. Nhưng ý định của Cha không thực hiện được, vì Cha Micae Giàu phải đi giúp xứ khác. Đó là họ Lagi (Giáo xứ Tân Lý ngày nay).
            Năm 1935, Cha Macco Châu thuộc Giáo phận Sài Gòn đến làm Chánh xứ Cù Mi thay Cha Giàu. Đi cùng với Cha Châu có 2 thầy: thầy Thanh và thầy  Quyền giúp giáo sở Cù Mi. Cha Macco Châu tiếp tục thực hiện ý định của Cha Giàu và lập kế hoạch mời Đức Cha Quinton về làm phép Nhà thờ và công trình phụ. Ngày 01.5.1935 Nhà thờ Giáo Xứ Cù Mi trang hoàng cờ hoa lộng lẫy, Đức Cha từ trên kiệu hoa bước xuống, chuông trống rập ràng vang lên toàn thể giáo dân Cù Mi long trọng đón Đức Cha Quinton. Cùng đi với Đức Cha có hai Cha thừa sai khác nhưng không biết tên. Đức Cha đã dâng Thánh lễ  Đại triều, làm phép Nhà thờ, Nhà xứ, nhà Dì, trường học, các ảnh tượng và ban phép Thêm sức. Để tán thưởng và ghi nhận công lao to lớn và lòng nhiệt  thành của Giới  chức đã giúp cha Micae Giàu xây dựng và sửa sang lại toàn bộ các công trình cùa Giáo xứ nhất là ngôi Thánh đường mới này. Đức Cha Quinton đã gắn huy chương Tòa thánh cho 4 ông Đại diện Giáo xứ Cù Mi: Đó là ông Câu nhì Antôn Lê Tước, ba ông Biện việc là: ông Phêrô Trương Khương, ông Phaolô Nguyễn Đặng và ông Giuse Trần Bình. Giúp xứ được ba năm thì Cha Macco Châu đổi đi.
            Năm 1938, Cha Micae Nguyễn Văn Giàu tái nhận sở Cù Mi thay Cha Macco Châu. Thời gian này, Cha Giàu tập trung công sức lo xây dựng nhà thờ họ Lagi. Để mừng 25 năm Linh Mục và tỏ lòng biết ơn công lao to lớn của Cha Micae đã cống hiến cho Giáo xứ Cù Mi. Năm 1942, ban Giới chức Giáo xứ tổ chức mừng lễ Bạc cho Ngài. Ngày thứ nhất tiếp đón Quý cha, quý thầy từ các nơi về. Vì các Cha phải đi bằng ngựa nên các Cha vất vã lắm mới đến được Cù Mi. Ngày thứ hai, Thánh lễ và tiệc mừng. Cha Micae làm chủ tế, 3 Cha đồng tế và 2 thầy Phó tế. Đến dự Thánh lễ Bạc của Cha Micae có đông đảo giáo dân Giáo xứ và một số giáo hữu đại diện cho Họ đạo Lagi. Ngày thứ ba, là ngày Ban giới chức thăm hỏi, cảm ơn, và tiễn các Qúy Cha lên đường.
             Qua 25 năm thiên chức Cha Micae Giàu đã có những đóng góp  vô cùng to lớn cho dân Chúa nói chung và cho Giáo xứ Cù Mi nói riêng. Đây cũng là dịp Giáo xứ Cù Mi tỏ lòng biết  ơn, lòng hiếu thảo, lòng quý trọng đối với một vị chủ chăn đã đưa giáo xứ Cù Mi lên một tầm cao mới có giá trị lịch sử.
Rồi 18 năm bình yên, thịnh vượng dưới sự chăn dắt của Cha Giàu từ 1928 đến 1946 đã nhanh chóng trôi qua. Năm 1946, chiến sự khốc liệt bắt đầu nổ ra. Năm 1947, lệnh “tiêu thổ kháng chiến” được ban ra và chiến lược “vườn không nhà trống”, đốt sạch, phá sạch đã được áp dụng. Bổn đạo có số chạy loạn, số khác phải vào rừng tránh đạn. Tháng 5.1946 Cha Giàu cũng phải về lánh nạn ở Toà Giám mục. Giai đoạn 1946-1954 là thời gian bi thương nhất của bổn đạo Cù Mi. Ngày 17.3.1947  tin buồn ập đến, giáo dân Cù Mi đau lòng nhìn Nhà thờ  đã bị đốt phá. Giáo dân phải sống giữa “rừng thiêng nước độc”; lên núi gặp cọp beo, xuống suối đụng cá sấu, ngày trốn tránh tầm đạn, đêm phải lo cày cấy, giáo dân sống trong hoang mang lo sợ, không linh mục, không bí tích nhưng tinh thần đạo, đức tin của giáo dân vẫn không hề lay chuyển. Ngày 21.3.1947 Nhà nguyện tạm được dựng lên cạnh bờ sông, cách bờ sông chừng 10m, Nhà thờ lợp bằng lá buông, các bức vách để trống để khi có máy bay oanh tạc thả bom, bắn phá thì chạy thoát cho nhanh. Nhà thờ này là Nhà thờ thứ tư của Giáo xứ Cù Mi hay gọi là nhà thờ Bằng Lăng nghèo nàn, đơn sơ. May thay, năm 1948-1949 có hai Cha là Nguyễn Bá Kính và Nguyễn Bá Luật ghé thăm. Giáo dân vui mừng tiếp đón và mời Cha dâng Thánh lễ, ban Phép các Bí tích. Giáo dân sốt sắng lãnh nhận các Bí tích cũng như tham dự Thánh lễ. Rồi hai Cha phải chia tay, mọi người lại trở về cảnh sống bơ vơ, không người chăn dắt. Giáo xứ trong hoàn cảnh không Cha xứ, máy bay địch oanh tạc thường xuyên. Ay vậy mà không có ngày Lễ trọng nào lại không tổ chức trọng thể. Năm 1948,  trường học của Giáo xứ được mọc lên ngay Gò Ông Thầy, các lớp học văn hóa, Giáo lý  ra đời, với các giáo viên là Thầy Nguyễn  An (cựu Latinh), cô giáo Nguyễn Thị Tùy (nữ tu), cô giáo Mai Thị Trang (nữ tu). Trung bình cả trường có từ 50-60 học sinh. Đến năm 1950 trường học phải di dời về phía sau Nhà thờ Bằng Lăng. Vì máy bay thường oanh tạc bắn phá khu vực Nhà thờ Bằng Lăng. Nên tháng 3.1950 trường học tiếp tục dời về khu ruộng Bà Rít và ổn định cho đến năm 1954. Dù cuộc chiến vẫn xảy ra, bom đạn vẫn nổ, nhưng việc học hành của các em vẫn không bị gián đoạn, giải quyết tình trạng mù chữ cho con em Cù Mi trong thời kỳ lịch sử khắc nghiệt này.
            Trung tuần tháng 3.1952, khi nghe tin Cha GioaKim Nguyễn Bá Luật trên đường đi công tác Mục vụ ở Cao Lãnh đã gặp nạn và qua đời. Ban Giới chức liền loan tin cho các giáo hữu được biết. Ông biện việc Nguyễn Hữu Duyên đặt áo lễ đen của Ngài lên trên bàn thờ, đặt mão 3 khía của Thầy Cả nằm trên áo, cả Giáo dân Cù Mi và tập  trung về Nhà thờ cầu lễ cho Cha Luật liên tiếp 3 ngày. Nỗi buồn chưa vơi. Tháng 8.1952 tin từ Họ Xuyên Mộc cho biết. Cha Micae Giàu sau khi tĩnh tâm ở Sài Gòn xong, Ngài về Đất Đỏ nghỉ lại để hôm sau dâng lễ cho Họ Long Điền và cha đã bị bắn tại Nhà thờ khi đang trong phòng Thánh bước ra  tiến lên bàn thờ dâng lễ. Nhớ ơn Cha, nghĩ về Cha, nghĩ về  những tháng ngày Cha giúp cho Cù Mi, nhất là ngôi Thánh đường cao lớn, vĩ đại mà cha đã xây dựng cho Cù Mi…rồi cả giáo dân bùi ngùi xúc động, nước mắt dâng trào vô cùng thương tiếc. Ông biện việc Nguyễn Hữu Duyên dọn bàn thờ, đặt áo lễ đen lên giữa, trên áo đen là chiếc mão 3 khía, mão này Cha thường đội khi đi rảy nước Thánh ngày Chúa Nhật. Một hồi dài chuông trầm thốt lên, sau đó khắc 7 tiếng, tiếp theo một hồi chuông dài. Đến hồi chuông thứ ba thì nhà thờ chật nít giáo dân như ngày lễ Chủ nhật. Rồi tiếng kinh cầu lễ vang lên, cầu cho Cha  Micae được an nghỉ trong Chúa. Vĩnh biệt Cha yêu Micae Nguyễn Văn Giàu.
Cũng trong năm này, giặc bắn phá dữ dội, trâu chết, nhà cửa tiêu điều. Nhà thờ bị hư hỏng nặng. Ban Quý chức họp bàn di dời Nhà thờ Bằng Lăng sang gần vùng đất đập Bà Ôn. Hay còn gọi là Nhà thờ Bà Ôn. Ở đây cây cối um tùm, rậm rạp để tránh đạn cho an toàn. Trường học cũng phải di dời về vùng ruộng Bà Rít. Ngày 30.11.1952 công việc dời trường học và Nhà thờ đều hoàn tất. Đây là Nhà thờ thứ 5 của Giáo xứ Cù Mi.
             Ngày 02.10.1954 Ban Quý chức lập kiến nghị dâng lên Đức Cha F.Cassaigne Giám Mục Địa phận Sài Gòn. Xin Đức Cha ban cho Cù Mi một Cha sở mới. Và nhờ Hồng ân Chúa thương đến Giáo sở Cù Mi. Lúc 10 giờ Ngày 23.10.1954 chuông trống ngân vang, Giáo hữu tập trung về tại Nhà thờ thật đông đảo đón mừng Cha Thừa sai Paris Troget được sai đến làm chánh xứ Cù Mi. Chiều 23.10 Cha Troget dâng Thánh lễ đầu tiên tại Nhà thờ Cù Mi tị nạn Bà Ôn. Trong thời gian này có Thầy Phaolô Diệu làm Phó xứ giúp cha Troget trong công tác Mục vụ. Ngày 17.3.1955 Ban Quý chức thống nhất với Cha Troget dời Nhà thờ Bà Ôn về lại cất trên nền Nhà thờ Cũ (Nhà thờ Bằng Lăng). Đây là Nhà thờ thứ 6 của Cù Mi.  Nhưng đến tháng 10 năm 1955, Ngài lại được Cha Phaolô Phan Tùng Lộc về thay để đi nhận nhiệm sở mới. Cha Lộc lại họp bàn Ban Quý chức dời Nhà thờ Bằng Lăng 2 này về lại gần nền Nhà thờ cũ, Nhà thờ mà bị giặc đốt năm 1947. Sau lễ các Đẳng Linh hồn năm 1955, Nhà thờ thứ 7 của Giáo xứ Cù Mi được di dời và tết Nguyên đán 1956 Cha Lộc dâng Thánh lễ đầu năm trong ngôi Nhà thờ nhỏ bé này. Cha Lộc cùng sống chết với giáo dân Cù Mi cho đến khi Giáo phận Nha Trang được chính thức thành lập ngày 05.07.1957 và Cù Mi lại được làm con của Giáo phận mới.
4. Về với Nha Trang.
             Với Sắc chỉ Crescit Laetissimo của Đức Thánh Cha Piô XII ban hành ngày 05.07.1957, Giáo phận Nha Trang chính thức được thành lập gồm Khánh Hoà, Ninh Thuận của địa phận Quy Nhơn và Bình Thuận, Bình Tuy của Giáo phận Sài Gòn do Đức Cha Piquet Lợi (MEP) làm Đại Diện Tông Toà. Như vậy, từ lúc này họ đạo Cù Mi lại trở thành đứa con xa xôi của Giáo phận mới Nha Trang.
Từ năm 1957 đến 1960, Đức Cha Piquet đã giao Cù Mi cho Cha Viot Nhơn coi sóc. Tháng 8.1958, Cha Viot họp bàn với Ban Quý chức lập kế hoạch trùng tu lại ngôi Thánh đường theo kiểu mẫu mà Cha Micae Giàu kiến trúc năm 1947.Tháng 10.1958 Cha Viot chuẩn bị mua ximăng, mua ngói ở Biên Hòa và mua gỗ ở trại cưa Bình Tuy.Tháng 12.1958 Nhà thờ thứ 8 được khởi công xây dựng. Đầu năm 1960 Nhà thờ mới được hoàn thành. Tết Nguyên đán năm 1960, Cha Viot cùng Giáo dân dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa trong nhà thờ mới tái thiết này. Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã ban cho Cù Mi có được ngôi Thánh đường đẹp nhất tỉnh Bình Tuy.
            Năm 1960 Cha Gérard Moussay đến thay Cha Viot. Vì  phải coi cả Cù Mi và Tân Lý, nên ngài chỉ có thể dâng lễ và ban phép các bí tích, còn những hoạt động khác thì tạm thời để yên. Đến ngày 15.4.1961 Cha Vinh Sơn Nguyễn Đạo Quán về Quản xứ Cù Mi thay Cha Gérard Moussay. Dưới sự chăn dắt của Cha Vinh Sơn nhà thờ được xây dựng lại khang trang hơn, phòng giáo lý đầy đủ. Tưởng đã yên vui hưởng bình an. Nhưng ngày vui chẳng được bao lâu chiến tranh nổ ra, đạn lại bay tứ phía, bom dội ào ào. Sáng Chúa nhật ngày 25.2.1965, lễ chưa xong mà bom lại dội ầm ầm trên làng Phò Trì làm 12 người chết và trâu bò gia súc cũng thiệt hại nặng nề. May mắn thay giáo dân Cù Mi đang dự lễ, nếu hôm ấy bom rơi ngay Nhà thờ thì còn ai là người sống sót. Dân Chúa sẽ ra sao? Có phải Thiên Chúa đã làm phép lạ không? Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời đã phù hộ Cù Mi không? “Đúng như thế”. Những trái bom rơi, những loạt đạn chết người. Đa số đồng bào Dân tộc Chăm bỏ đi hết chỉ còn Cù Mi ráng bám lại làng mạc một thời gian. Nhưng rồi bom lại rơi, đạn lại pháo từ biển vào làm giáo dân hoảng loạn, làng mạc hoang tàn, dân cư sơ tán hầu hết. Người giáo dân Cù Mi cũng không chịu nỗi cảnh chiều chiều những chiếc máy bay “Đầm già” quan sát thả bom ầm ỉ. Ngày 26.2.1965 Cha xứ cùng con chiên khăn gói ra đi tránh đạn. Ong Trùm  Phêrô Cao Chiếu vào Nhà thờ đưa  ảnh tượng Đức Mẹ Mông Triệu xuống khỏi tòa và cùng ông Từ Mai Rớt,  hai ông thay phiên nhau vác ảnh Đức Mẹ đi theo đường biển về Bình Tuy. Khi đến Giáo xứ Vinh Thanh, Cha Nguyễn Viết Khai nghe tin Đức Mẹ Bổn Mạng Cù Mi đến, Cha vội vàng bảo hai cụ đưa tượng Đức Mẹ vào Nhà thờ Vinh Thanh và đặt Mẹ trên tòa chờ ngày Cù Mi ổn định hãy kiệu Mẹ về. Hai cụ vâng lời Cha Khai và về báo tin cho Cha Vinh sơn và Giáo dân biết. Khó khăn lại đến, đất khách giờ cũng là đất khách, nhưng đây là đời con cháu tha  hương, cũng vì để bảo vệ tánh mạng và duy trì đức tin mà một lần nữa, hậu duệ của 9 tiền hiền lập xứ Cù Mi lại khăn gói rời quê hương đi tìm nơi ở mới. Đó là vùng đất xã Tân An ngày nay. Náu nương nơi xứ Thanh Xuân và xứ Tân Lý ít lâu. Ngày 09.4.1695 Cha Vinh Sơn dẫn giáo dân về nơi đất mới và chọn vùng đất cất Nhà thờ. Ngày 10.5.1965 giáo dân dựng lều tranh làm nhà xứ. Ngày 15.5.1965 Cha Vinh Sơn về ở tại nhà xứ đơn sơ này(thời gian tị nạn Cha Vinh sơn ở trọ nhà xứ Thanh Xuân với Cha Vũ Đình Hiên). Ngày 16.5.1965 giáo dân cùng bắt tay xây dựng lại nhà thờ. Nhà thờ đơn sơ được cất bằng gỗ tạp, mái lợp tôn kẽm. Đây là Nhà thờ thứ 9 của Giáo xứ Cù Mi. Chiều ngày 16.5.1965 hồi chuông ngân lên và Cha Vinh Sơn dâng Thánh lễ đầu tiên tại Nhà thờ tị nạn. Từ nay, Giáo dân Cù Mi sống lại từ tinh thần lẫn thể xác, vui mừng hiệp một ý cùng Cha xứ Cảm tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria. Cuộc sống giáo dân Cù Mi bắt đầu từ đây, rồi cùng  nhau xây dựng hội trường, phòng đọc sách, trên đồi cát trắng trong cảnh trắng tay. Chưa yên, ngôi Thánh đường dựng tạm quá chật hẹp. Do vậy, ngày 10.6.1965 Cha Vinh Sơn họp bàn với Ban Quý chức làm lại Nhà thờ mới khang trang hơn, rộng rãi hơn. Ngày 13.6.1965 khởi công đắp nền Nhà thờ và chuẩn bị một số vật liệu cần thiết. Ngày 27.6.1965 tiến hành dựng và lợp mái Nhà thờ mới. Ngày 05.7.1965 Nhà thờ hoàn thành. Nhà thờ có hai mái. Mái cao lợp bằng tôn sắt, mái thấp lợp bằng tôn ximăng, nền tráng ximăng, cửa gỗ, vách ván. Đây là ngôi Nhà thờ thứ 10 của Cù Mi, hay còn gọi là Nhà thờ Hiệp Hòa. Ngày 14.8.1965 Nhà thờ trang hoàng cờ hoa lộng lẫy, Giáo dân chật đứng chật như nêm. Chiếc xe ôtô hiệu Chevrolet từ từ tiến vào ngã 3 liên tỉnh lộ 23, rồi dừng lại. Cánh cửa hậu của xe mở ra, ông Trùm Cao Chiếu và Ong Từ Mai Rớt kính cẩn đưa tượng Mẹ Bổn Mạng xuống  xe và đặt Mẹ lên kiệu hoa. Chuông trống Nhà thờ Hiệp Hòa nổi lên, Cha Vinh Sơn, Cha Trần Ngọc Thủy và Cha Nguyễn Viết Khai nghiêng mình xông hương kính chào Mẹ rồi từ từ đoàn kiệu hoa rước Mẹ tiến về Nhà thờ, đặt Mẹ trên Tòa cao rồicùng nhau hát mừng kính Mẹ. Đó là quang cảnh rước Đức Mẹ Bổn Mạng Cù Mi Hiệp Hòa về đoàn tụ với con cái nơi đất khách quê người.
             Trong thời gian tị nạn, Giáo dân công tác tích cực cùng Cha xứ lập lại kỷ cương trong giáo xứ và cũng kiếm kế làm ăn, sinh sống chờ ngày về quê hương Cù Mi cũ. Toàn thể giáo dân Cù Mi lúc bấy giờ cứ nghĩ là hai hoặc ba năm sẽ trở về. Nhưng đợi chờ đến mười năm sau, khi cỏ cây mọc um tùm kín lối về thì hòa bình mới thực sự có trên đất nước Việt Nam thân yêu này. Trong bối cảnh tranh tối tranh sáng của năm 1973 (sắp sửa hòa bình) thì Cha Vinh Sơn Quán đổi đi về Di Cần và một Linh mục Pháp lại về là Cha Roger Delsuc Sáng. (Thời gian này Địa phận Nha Trang thuộc quyền cai quản của Đức Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận 1967 – 1975). Chưa được 1 năm sau thì Ngài ngã bệnh và qua đời tại Sài gòn, Cù Mi lại chưa có Cha xứ mới. Sau đó, Cha Vinh Sơn dẫn dắt đoàn chiên Duy Cần trở về tị nạn tại Cù Mi nên Ngài tạm coi xứ, nên xứ vẫn có Thánh lễ. Sau khi Cha Vinh Sơn đi thì Cha Báu và Cha chính J.B Hoa (bây giờ là Đức Ông Tổng Đại diện) thường xuyên lên dâng Thánh lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ trọng.
5Mẹ mới Phan Thiết.
           Ngày 30.01.1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã cắt phần đất Bình Thuận và Bình Tuy của Giáo phận Nha Trang để lập nên Giáo phận Phan Thiết. Toà Thánh đã đặt Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Giám mục Phụ tá Sài Gòn làm Giám Quản Tông Toà Giáo phận Phan Thiết. Vậy là Cù Mi lại có Mẹ mới, và có lẽ sẽ là “Mẹ Út” của mình. Ngày 30.4.1975 hòa bình lập lại. Giáo dân Cù Mi vui mừng và hân hoan vì được trở về xứ sở, đứng nhìn cỏ tranh hoang mọc phủ kín đầu người. Chung quanh nhà thờ nào là keo, táo mọc um tùm. Nhà thờ thì bị giặt bắn phá sụp đổ tan nát chỉ còn hai bức tường đứng trơ trọi bên đống gạch vụn. Tượng đài Mẹ vẫn sừng sững giữa trời xanh, Mẹ giang rộng cánh tay đón đàn con đang lưu lạc tản mác khắp nơi về với Mẹ. Hai hàng điệp vàng to lớn quanh đài Mẹ che bóng mát cho đoàn người mới kéo về che lều ở tạm trong khi chờ dựng lại nhà ở. Toàn cảnh thung lũng Cù Mi tiêu điều, rừng đước thì bị chất độc hóa học tàn phá chỉ còn trơ cây chết đứng, ruộng thì cỏ mồm từng bụi to như cái thúng mọc chằng chịt. Nhà cửa không còn cái nào, đây đó là những hố bom và những hàng rào kẽm gai chăng khít. Ngày 17.11.1975 Giáo phận Phan Thiết được thành lập dưới sự dẫn dắt của Đức Giám mục Nicolas Huỳnh Văn Nghi và ngày 20.5.1975 Cha G.B Hoàng Thanh Huê được sai đến Cù Mi để trông coi đàn chiên côi cút. Sau chiến tranh, cuộc sống khó khăn tứ bề, Cha xứ mới, con chiên giáo hữu lại mới từ tha hương trở về với hai bàn tay trắng, cùng nhau bắt tay vào xây dựng lại giáo xứ khắc phục hậu quả chiến tranh, phần thì lo kế sinh nhai bửa đói, bửa no hàng ngày. Mặt khác, giáo dân Cù Mi đang còn tản lạc khắp nơi chưa về được quê cũ. Nhưng Cha G.B Huê đưa ra quyết tâm, dù có khó khăn thế nào thì cũng phải đưa con chiên vượt qua để về đất hứa và ngày 23.5.1975 Cha Huê dâng thánh lễ đầu tiên tại quê hương Cù Mi này. Mất đi 10 năm 2 tháng 27 ngày, giờ đây Cù Mi mới có Thánh lễ. Sau đó, ngày 09.9.1975 ngôi nhà thờ bằng lá được cất tạm trên sân nhà thờ để ngày ngày giáo dân cùng hiệp lòng dâng lễ tạ ơn Chúa. Đây là ngôi nhà thờ thứ 11 của Giáo xứ Cù Mi. Giáng sinh 1975 Cha con mừng lễ trên đống gạch hoang tàn đổ nát của nền nhà thờ cũ. Hai bức tường còn trơ lại che bớt gió mùa đông, sao giăng kín bầu trời, tiếng đàn guita réo rắt, hòa với giọng hát rộn ràng mừng Chúa sinh vang xa. Đom đóm làm nền sáng cho Chúa Hài Đồng, còn rừng âm u như ấm tình người giáo hữu sung sướng và vui mừng  vì đã được về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhờ hồng ân Chúa ban và sự hộ phù của Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, Cha G.B đã từng bước đưa giáo dân vượt qua cảnh khó khăn. Song song với đời sống đức tin, dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết đã cho các Dì về giúp giáo xứ. Dì Anna Đoàn Thị Mến và Anna Nguyễn Thị Liêu là hai Dì chịu cực khổ với giáo xứ nhiều nhất, bửa đói bửa no, bị đuổi tới đuổi lui mà vẫn bám trụ. Hai Dì dạy giáo lý, dạy hát, dạy lớp tình thương và hướng dẫn sinh hoạt cho thiếu nhi. Nhờ thời gian phục vụ này của 2 Dì mà Cù Mi hôm nay mới có 1 số nữ tu, chủng sinh và nhiều ơn gọi khác.
               Cũng nói thêm về kinh tế, đất đai ngày xưa ông bà tổ tiên dâng cúng cho nhà thờ rất nhiều. Nhưng bây giờ chỉ còn lại hai phần ruộng là Phó Lâm và Đức Mẹ (khoảng 20.000m2­), giáo dân cùng tham gia cày cấy để có lúa cho Cha và các Dì sinh sống, còn ít nữa lo dầu đèn trong xứ. Ngày 11.6.1977  Cha JB Huê họp bàn cùng Ban HĐGX  thống nhất di dời Nhà thờ Hiệp Hòa tị nạn về lại Cù Mi  nguyên quán và cất trên nền Nhà thờ cũ mà Cha Micae Giàu đã cất khi xưa đã bị sụp đổ do chiến tranh. Nhà thờ bằng gỗ, vách ván, mái cao lợp tôn kẽm, mái thấp lợp bằng tôn ximăng, nền tráng ximăng. Đây là ngôi Nhà thờ thứ 12 của Giáo xứ cù Mi. Mãi đến ngày 29.01.1989 Cha J.B Huê đã trùng tu một lần nữa, xây dựng lại ngôi Thánh đường gọi là khang trang nhất từ trước đến nay. Đây là ngôi Thánh đường thứ 13 của Giáo xứ, mừng vui vì đời sống giáo dân đã ổn định đôi chút, cuộc sống tinh thần thoải mái và cũng để tổng kết lại chặng đường đã đi qua. Cha Huê đã cùng giáo dân long trọng mừng lễ tạ ơn Chúa, khánh thành nhà thờ, và mừng Cù Mi trên 100 năm tuổi. Lần đầu tiên Cù Mi có thánh lễ đại triều. Đức Cha Nicolas chủ tế, Cha Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế cùng hơn 10 Cha dâng Thánh lễ đồng tế. Giáo xứ Cù Mi lúc này có 4 giáo họ chuẩn bị khai sinh. Ngày 07.10.1990 Mân côi tách ra thành lập giáo họ, chọn Đức Mẹ Mân côi làm lễ quan thầy (bổn đạo giáo họ Mân côi đa số là dân kinh tế mới). Ngày 07.10.1990 Phêrô cũng tách ra thành lập giáo họ và lễ bổn mạng là Thánh Phêrô (bổn đạo giáo họ Phêrô là dân Nghệ An, Hà Tỉnh di dân vào thời Cha J.B Huê). Giáo họ Antôn được hình thành, nhưng mãi đến ngày 13.7.1994 mới có thánh lễ đầu tiên (dân Hà Tỉnh đến sau). Giáo họ Giuse, một số giáo dân tha phương đến xứ năm 1977. Năm 1994 mới có thánh lễ tại đây và ngày 01.12.1999 Nhà nguyện Giuse được khởi công xây dựng và ngày 29.4.2000 khánh thành có Đức Cha Nicolas tham dự. Thời gian này các Cha Dòng Chúa Cứu Thế cũng thường đến giảng và cấm phòng cho giáo dân trong giáo xứ. Năm 1992 có thầy Giuse Phạm Đức Triêm thuộc Dòng Chúa Cứu Thế đến  giúp dạy Anh văn, dạy văn hóa cho trẻ em trong xứ. Thỉnh thoảng Cha Gierado Lê Văn Hòa (dòng CCT) cũng về dâng Thánh lễ.  Năm 1993 có Cha Thừa thuộc Dòng Chúa Cứu Thế về Cù Mi nghỉ hưu và Ngài cũng giúp Cha Huê dâng lễ cho giáo xứ (cuối năm 1993 Cha Thừa về dòng). Cuộc vui nào cũng tàn, Cha J.B Huê đã ở Cù Mi 19 năm, nay Cha phải đi nhận nhiệm sở mới. Ngày 11.6.1994 Cù Mi đón nhận Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Vân Nam về giúp xứ. Tiếp tục công việc Cha Huê còn dở dang, Cha Nam cho xây dựng hàng rào nghĩa địa, đúc tượng Thánh giá, làm sân lễ và trồng cây trên nghĩa địa, sửa sang lại những con đường nhỏ trong giáo xứ. Tu sửa lại đập nước Bà ôn và mương Du Đế (kinh phí do Đức Cha Nicolas đài thọ), xây hàng rào chung quanh nhà xứ. Thời kỳ này là thời kỳ mà giáo xứ phải tiến hành xây dựng nhiều nhất.                Ngày 01.10.1998 có Cha Giuse Phạm Thọ về phụ giúp Cha Nam coi giáo xứ cùng phục vụ 4 giáo họ. Thời gian này giáo xứ thực hiện lối sống nề nếp, kỷ luật. Cha Thọ quan tâm đến học hành của các em trong giáo xứ, đặc biệt là em có hoàn cảnh khó khăn học giỏi.  Vào đầu năm học Cha thường phát  thưởng cho những em có thành tích trong học tập, quà cho các em thi đỗ Đại học. Do vậy, trình độ văn hóa con em giáo xứ được nâng lên.
         Sau 25 năm thanh bình bộ mặt Cù Mi đã được đổi mới, sáng sủa và văn minh, con em trong xứ đã có người học Đại học, Cao đẳng, cấp III và đa phần là cấp II. Giáo xứ không còn nạn mù chữ. Giáo xứ cũng sinh thêm nhiều ơn gọi dù chưa được bao nhiêu nhưng cũng đã tiến triển nhiều. Ngày 13.5.2001 Cha F.X Nam đi nhiệm sở mới Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu về coi xứ, 11 tháng sau cha Hữu du học tại Pháp, Cha Thọ quyền quản nhiệm giáo xứ. Thời gian Cha Thọ quản nhiệm phong trào học hỏi chia sẻ lan mạnh trong giáo dân và duy trì cho đến hôm nay. Ngày 21.8.2003 Cha Phêrô Nguyễn Đình Sáng được sai đến coi sóc Cù Mi và giáo dân bắt đầu chuyển sang một trang sử  mới. Với vai trò là chánh xứ Cù Mi, Cha Phêrô bắt tay vào công tác mục vụ của mình. Giáo xứ đi vào hoạt động có nề nếp hơn. Rồi ngày 28.8.2004 Cha Phêrô Võ Tấn Luật  được cử đến làm Cha phó giúp Cha Phêrô Sáng dâng Thánh lễ ở Giáo xứ và các Giáo họ. Cha Phêrô tiến hành kiện toàn lại toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng. Phòng giáo lý rộng rãi được mọc lên, một nhà truyền thống bằng cột gỗ của nhà thờ cũ, ngôi nhà thờ mới và nhà xứ được lên kế hoạch xây dựng. Tưởng chừng như một giấc mơ. Ngày 22.2.2005 Giáo xứ Cù Mi vô cùng phấn khởi và long trọng mừng lễ đặt viên đá đầu tiên. Ngôi Nhà thờ tạm được cất lên bên cạnh Nhà thờ đang xây dựng để công việc Phụng vụ không bị gián đoạn. Đây là ngôi Nhà thờ thứ 14 của Giáo xứ Cù Mi. Ngày 28.3.2005 Cha Luật rời Giáo xứ Cù Mi và Cha JB Ngô Đình Long đến thay Cha Luật giúp Cha Phêrô trong công tác Mục Vụ. Ngày 02.5.2005 khởi công xây dựng nhà thờ mới. Toàn thể Giáo dân mỗi người mỗi nhà thực hành lập quỹ tiết kiệm để cùng nhau xây dựng ngôi Thánh đường. Từng ngày trôi qua, giờ đây ngôi Thánh đường mới đã hoàn thành. Đây là Nhà thờ thứ 15 của Gx Cù Mi. Nhà thờ được đúc bằng bêtông-cốt thép rộng lớn, uy nghi với tháp chuông cao trên 30m, trang trí nội thất nhà thờ chất lượng cao, đài Mẹ được xây cất với tượng Mẹ cao 3m được tạc từ đá hoa cương chắc và đẹp, toàn bộ khuôn viên của Thánh đường  đã được hoàn toàn đổi mới với tổng kinh phí xây dựng trên 5 tỷ đồng.  Đây là công trình thế kỷ như một Hồng ân mà Thiên Chúa và Mẹ Maria ban tặng cho giáo xứ Cù Mi qua bàn tay tài năng của cha Phêrô Sáng.
         Một giáo họ sắp được nâng lên thành giáo xứ (giáo họ thánh Giuse); Ba giáo họ còn lại: Mân Côi, Phêrô (chuẩn bị xây dựng nhà thờ) và Antôn nề nếp hơn cũng nhờ công lao của các Dì Dòng Mến Thánh Giá, với mỗi giáo họ là một nhà trẻ - mẫu giáo. Hoạt động trong giáo xứ cũng đổi mới, có các đoàn thể với các ca đoàn của từng giới hát lễ mình. Đội ngũ giáo lý viên đông đảo, từng ngày có thánh lễ riêng cho từng giới, nhà tình thương được xây dựng cho các hộ nghèo, giếng nước cho các gia đình chưa có nước sạch. Cha Phêrô cũng vận động các nhà hảo tâm giúp đỡ quỹ hiếu học, phát học bổng cho các em có hoàn cảnh khó khăn. Năm 2005 Thầy JB Nguyễn Hồng Uy([1])đến giúp cho Cha Phêrô Nguyễn Đình Sáng trong việc giảng dạy giáo lý và dâng Thánh lễ mỗi ngày ở giáo xứ cùng 4 giáo họ. Ngày 6.11.2006 Cha JB Nguyễn Hồng Uy về làm Quản xứ Giáo xứ Thánh Giuse (Giáo họ Giuse được nâng thành Giáo xứ Thánh Giuse).Ngày 10.11.2006 Cha  Giuse Nguyễn Văn Soi về thay Cha  JB Uy làm Cha phó Cù Mi và cùng giúp Cha Phêrô Sáng dâng Thánh lễ mỗi ngày ở Giáo xứ và các giáo họ cũng như  những công tác Mục vụ khác. Đếnngày 04.02.2009 giáo xứ Cù Mi đưa Cha Pherô Nguyễn Đình Sáng về TòaGiám mục Phan Thiết. Ngày 6.2.2009 Giáo xứ đón cha Gioan Nguyễn Văn Hảo từ Giáo xứ Phước An về làm chánh xứ Cù Mi. Ngày 07/2/2009 Giáo xứ lại tiễn cha phó Giuse Nguyễn Văn Soi từ Giáo xứ Cù Mi về làm Chánh xứ Phước An. Trong thời gian nàyGiáo xứ được Thầy Paul Nguyễn Đình Luyện về giúp, đến 01/07/2009 thầy Batolomeo Trần Nhật Nghĩa về giúp xứ, thầy Paul Luyệnvề Đại chủng viện Nicola. Ngày 31/7/2010 Giáo xứ lại tiễn  thầy Bat Trần Nhật Nghĩa về Tòa Giám Mục. Ngày 1/8/2010 giáo xứ đón Thầy Pet Trần Duy Khanh về giúp xứ. Một năm đã trôi qua, sáng Chủ nhật ngày 24/8/2011 giáo xứ lại phảinói lời tạm biệt thầy Pet Trần Duy Khanh  tiễn thầy về Tòa Giám mục kếtthúc  thời gian mục vụ tại Cù Mi. Trong lúc cha xứ Yn sức khỏe suy yếu, thì ngày 03/9/2011 ĐGM Giuse Vũ Duy Thống gởi Thầy Phó tế Thomas Nguyễn Văn Hiệp quê Hiệp Đức về Cù Mi, giúp cha xứ YN Nguyễn Văn Hảo trong công tác Mục vụ. Đến ngày 09/4/2012, Thầy Thomas Nguyễn Văn Hiệp về lại TGM để chuẩn bị Phong chức Linh mục (24/5/2012). 
           Ngày 17/5/2012, nhà thờ giáo họ Phêrô -Giáo xứ Cù Mi khánh thành và được Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống nâng lên hàng Giáo xứ - Giáo xứ Hồ Thắng. Và cũng trong ngày này, vâng lời bề trên,Cha Gioan Nguyễn văn Hảo về làm Chánh xứ giáo xứ Hồ Thắng. Ngày 18/5/2012, Cha Gioan Nguyễn Kim Hà (Giáo xứ Đông Hà) về làm Chánh xứ Cù Mi.

          Trãi qua bao nỗi thăng trầm, từ 9 gia đình, nay giáo xứ Cù Mi đã vững vàng, địa bàn rộng lớn, đông đảo giáo dân. Trên 600 gia đình, 3 giáo họ đã tách ra và được nâng lên Giáo xứ (Giáo xứ Thánh Giuse, Giáo xứ Mân côi và Giáo xứ Hồ Thắng) đời sống đức tin đang được chăm sóc. Bộ mặt giáo xứ văn minh và tươi sáng hơn, sinh hoạt các đoàn thể tiến triển nhiều (nhất là thiếu nhi). Trên 125 năm, biết bao công sức, bao mồ hôi, máu và nước mắt của các Cha xứ, các ông Trùm, các Thầy, các Dì, các tiền hiền đã đổ xuống trên mãnh đất này để có được một Cù Mi như hôm nay, Cù Mi vững vàng trong đức tin, Cù Mi văn minh, ổn định về kinh tế, một Cù Mi tươi đẹp và hạnh phúc. Giáo dân Cù Mi vô cùng cảm phục, luôn ghi khắc trong tâm những công ơn to lớn mà các Tiền nhân đã mang lại. Là miêu duệ của 9 tiền hiền xưa, con cháu chúng ta hãy nhìn vào tấm gương cha ông, noi theo gương các Ngài luôn biết sống hy sinh và phục vụ, khắc phục mọi khó khăn, cố gắng vươn lên để khỏi hỗ thẹn khi thắp nén hương kính nhớ ông bà tổ tiên trong những ngày đầu năm mới.


B. NHỮNG BIẾN CỐ ĐÁNG NHỚ
120 năm so với lịch sử nhân loại thì chẳng là bao, nhưng với một Giáo xứ thì có thể coi là một thời gian khá dài. Tuổi đời Cù Mi lại đi liền với những thăng trầm của đất nước, của dân tộc. Thoáng nhìn sơ lược về lịch sử, ta dễ dàng nhận ra rằng thời gian Cù Mi hình thành và phát triển cũng là lúc mà đất nước, dân tộc Việt Nam phải trải qua nhiều biến động nhất. Trong ký ức của những người con Cù Mi, biết bao điều còn đọng lại. Một vài sự kiện ghi lại sau đây chỉ rất ít ỏi, so với những gì còn in sâu trong lòng, nhất là đối với những bậc cao niên lão thành.
ĐỨC CHA FRANCOIS XAVIER CAMELBECKE HÂN LẦN ĐẦU TIÊN ĐẾN CÙ MI
Đó là vào năm 1899 khi Cù Mi đang được Cha Bovin Nhã coi sóc. Cha Nhã đã cùng với Giáo dân của ngài hân hoan đón mừng Đức Cha từ Quy Nhơn chinh thân vào Cù Mi thăm Giáo dân và ban bí tích Thêm Sức. Cùng đi với Đức Cha, còn có Cố Đề, vị Linh mục thừa sai đã nhiều lần kinh lược Cù Mi. Lần đầu tiên kể từ ngày lập xứ, Giáo dân Cù Mi mới được một dịp trọng đại như thế này.
Trong số những người lãnh nhận bí tích Thêm Sức năm ấy, sổ sách còn ghi lại được mấy người như ông Trần Rẫy, ông Trương Khương và ông Nguyễn Tạo.
Một biến cố lớn lao như vậy, không chỉ có Giáo dân Cù Mi hân hoan phấn khởi, mà người lương, người dân tộc Chăm cũng quan tâm không kém. Họ đến thật đông, vây quanh nhà thờ suốt giờ lễ, miệng tấm tắc khen Đức Thầy có cái áo, cái mũ và cái gậy đẹp và oai phong quá!

C. NHỮNG NIÊN BIỂU QUAN TRỌNG
- 13.05.1885               : Ban hành chiếu Cần Vương
- Khoảng 1887            : Cha Huỳnh Công Ẩn và 09 gia đình đến Cù Mi
- 1893                         : Cha Ẩn rời Cù Mi, cha Thiên về thay
- 1894                         : Cha Sanh đến Cù Mi thay Cha Thiên
- 1895                         : Cha Bovin Nhã đến Cù Mi
- 1899                         : Cù Mi thuộc về địa phận Đông Đàng Trong
- 1890                         : Cha Sao đến Cù Mi
- 1902                         : Cha Phuông thay cha Sao
- 1903                         : Cha Thao đến thay cha Phuông
- 1904                          : Các cha J. Guegnard Lộc và Simon Chánh làm phó
- 1912                         : Cha Gustave Lefevre
- 1916                         : Cha Phêrô Tiễn
- 1918                         : Cha Giuse Trần Hiếu Lễ đến Cù Mi
- 1920                         : Cha Phêrô Thể
- 1923                         : Cha Giuse Trần Hiếu Lễ tái giúp xứ Cù Mi
- 03.02.1924                : Đông Đàng Trong được đổi thành Địa phận Sài Gòn
- 1928                         : Cha Micae Nguyễn Văn Giàu về thay cha Lễ
- 1930-1934                : Cha Giàu xây dựng nhà thờ mới kiểu Au châu
- 1935                         : Cha Maccô Châu
- 1938                         : Cha Micae Nguyễn văn Giàu tái giúp xứ Cù Mi
- 1946                         : Kháng chiến bùng nổ
- 1947                         : Lệnh “Tiêu thổ kháng chiến” Nhà thờ bị đốt
- 1947 - 1954              : Dân Cù Mi lánh nạn trên rừng
- 1948 - 1949               : Hai cha Kính và Luật ghé thăm giáo dân Cù Mi
- 23.10.1954-10.1955  : Cha Troget đến Cù Mi
- 10.1955-4.1957         : Cha Phaolô Phan Tùng Lộc đến thay cha Troget
- 05.07.1957                 : Thành lập giáo phận Nha Trang
- 5.1957                       : Cha Viot Nhơn coi sóc Cù Mi
- 1.1960                       : Cha Gerard Moussay
- 15.4.1961                   : Cha Vinh Sơn Nguyễn Đạo Quán đến Cù Mi
- 1965 - 1973                : Dân đi lánh nạn ở Tân An
- 29.3.1973                   : Cha Roget Delsue Sáng đến Cù Mi
- 11.1973                     : Cha Roget Delsue Sáng sang Pháp chữa bệnh
- 20.2.1974                   : Cha Roget Delsue Sáng về lại giúp xứ Cù Mi
- 11.1974                     : Cha Roget Delsuc bệnh nặng và mất tại SàiGòn
- 30.01.1975                 : Thành lập giáo phận Phan Thiết
- 20.5.1975                 : Cha JB Hoàng Thanh Huê chánh xứ Cù Mi
- 1987                         : Thành lập giáo họ Mân Côi
- 1989                         : Trùng tu nhà thờ Cù Mi
- 1990                         : Thành lập giáo họ Antôn
- 1993                         : Thành lập giáo họ Giuse
- 11.6.1994-13.5.2001: Cha Fx Nguyễn Vân Nam chánh xứ Cù Mi
- 05.8.2001-29.7.2002: Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu Chánh xứ CùMi
- 21.8.2003                  : Cha Phêrô Nguyễn Đình Sáng chánh xứ Cù Mi
- 22.02.2005                : Lễ Đặt Viên Đá Đầu Tiên xây dựng nhà thờ mới
- 02.05.2005                : Khởi công xây dựng nhà thờ
-06.11.2006: Giáo họ Giuse được nâng lên hàng Giáo xứ và đón LM JB Nguyễn Hồng Uy  quản xứ tiên khởi.                                                     

- 28.02.2007                 : Khánh thành nhà thờ mới.

 (Còn tiếp)